Đỗ Ngọc Minh
Liên minh Blockchain trong các trường Đại học (UBA)
Chào mừng bạn đến với Cẩm nang về Web3 dành cho các chủ doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam. Như tên gọi của nó, tài liệu này cố gắng được diễn đạt với văn phong dễ đọc, dễ tra cứu, và đối tượng người đọc tập trung vào các chủ doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam (Sau đây tôi sẽ gọi chung là các bạn).
Nếu bạn trên 35 tuổi, hẳn bạn đã từng trải qua giai đoạn đầu của Internet tại Việt Nam giống như tôi, và những gì bạn sắp gặp với Web3 sẽ là một hành trình khám phá giống như cách mà lần đầu bạn làm việc với Internet (Web1.0). Còn nếu bạn dưới 35 tuổi, sinh ra đã có Internet thế hệ 2 (Web2.0) rồi, thì cũng không sao, mời bạn trải nghiệm luôn những điều mới mẻ của Web3 trong sự đối chiếu với những điều bạn đã quen thuộc của Web1.0 và Web2.0
Dẫn nhập – Hãy bắt đầu với thời điểm Việt Nam sau tháng 11/1997
Đây là thời kỳ Việt Nam vừa hòa mạng Internet với thế giới. Giai đoạn này, Internet trong mắt đại đa số người dân là một cái gì đó xa xỉ, khó sử dụng, và ngoài việc nó mang tới thông tin thời sự quốc tế, kiểu như đọc báo mạng nước ngoài, thì hiếm ai nghĩ rằng sẽ có ngày mình kinh doanh, buôn bán hoặc làm việc cả ngày trên môi trường này cả. Lý do rất đơn giản, công nghệ của Internet thời đó còn sơ khai, để vào Internet ta phải quay số qua đường dây điện thoại cố định, tải về từng tí một thông tin, và chi phí phải trả cho thời gian kết nối Internet là cộng dồn của nhiều loại chi phí liên quan đến đường truyền. Nó thực sự chậm chạp và đắt đỏ.
Đó là thời kỳ mà sau này, ta gọi đó là thế hệ Web1.0. Thế hệ của những trang web tĩnh, chủ yếu là thông tin, và người dùng thì chỉ có đọc tin (read only). Với những đặc điểm như trên, các doanh nghiệp Việt Nam thời kỳ này nếu nhanh nhạy nắm bắt thời cuộc thì họ chủ yếu là các doanh nghiệp liên quan đến xuất nhập khẩu. Website trở thành công cụ giao tiếp chính của các doanh nghiệp, khi mà các bạn hàng từ khắp nơi trên thế giới, thay vì phải đến tận nơi ở Việt nam, thì nay chỉ cần vào website, đọc thông tin về doanh nghiệp và xem các sản phẩm, ví dụ như hàng thủ công mỹ nghệ tinh xảo, được chụp ảnh cẩn thận đưa lên. Sự khác biệt của các doanh nghiệp thời kỳ Web1.0 là thay vì mỗi lần đi hội chợ phải xách theo cả vali tờ rơi, catalogue sản phẩm của doanh nghiệp, thì nay chỉ phải mang đi một lượng vừa phải, chủ yếu là mang theo namecard, trên đó đã có sẵn địa chỉ email và website. Những doanh nghiệp làm website sớm thời kỳ đó, họ có lợi thế chiếm giữ những tên miền đẹp, được hiển thị tên trong nhiều danh bạ khác nhau, được các hệ thống tìm kiếm index dữ liệu và đánh giá mức độ uy tín cao, do thời gian hiện diện trên Internet đủ dài. Và lợi thế quan trọng nhất của những người tiên phong nắm bắt công nghệ để mở cánh cửa ra với thế giới, đó là kết nối sớm với những bạn hàng tiềm năng, và hình thành mối quan hệ khách hàng lâu dài, bền vững ngay từ rất sớm, vượt lên trên rất nhiều đối thủ khác cùng ngành.
Thế hệ Web1.0 tồn tại trên thế giới từ năm 1991 cho đến năm 2004, thì thế hệ Web 2.0 với mô hình read-write (đọc và ghi) hình thành, đi cùng với sự ra mắt của các nền tảng dịch vụ trực tuyến, phục vụ cho các nhu cầu thiết yếu của con người như Thương mại điện tử (Amazon), Tìm kiếm thông tin (Google), Kết nối bạn bè và trao đổi thông tin (Facebook),… Ở các nền tảng dịch vụ đại diện cho thế hệ Web2.0 này, dữ liệu của người dùng dễ dàng được ghi lên các nền tảng trực tuyến như đã nêu ở trên, và các nền tảng sau đó sử dụng chính những dữ liệu này “nhân danh phục vụ người dùng”, nhưng về bản chất là để kinh doanh, bán, chia sẻ dữ liệu với các nền tảng khác, và thu tiền quảng cáo…
Trong giai đoạn này, chúng ta đã được chứng kiến sự bùng nổ của các hoạt động quảng bá, tiếp thị và kinh doanh, kết nối hợp tác làm ăn trên môi trường Internet của người dùng nói chung và của các doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng. Có thể nói, tại thời điểm hiện tại, doanh nghiệp nào cũng đang dùng từ một cho đến rất nhiều các dịch vụ Internet giai đoạn Web2.0 cho các hoạt động của mình.
Mặc dù vậy, nếu nhìn vào thời gian đầu của Web2.0 thì có nhiều điểm tương đồng với thời gian đầu của Web1.0, khi mà không phải chủ doanh nghiệp nào cũng đủ nhanh nhạy hoặc đủ thông tin hay nhận thức về những tiềm năng của các dịch vụ Web2.0 mang lại. Họ còn đang tạm hài lòng với một vài cái website và email mới được tạo ra từ thời kỳ của Web1.0
Những doanh nghiệp còn lại, do sớm nhận thức được sức mạnh của những nền tảng công nghệ mới của Google, Amazon, Facebook, … họ đã dành nhiều thời gian và công sức để SEO web, để kiếm cách hợp tác và bán hàng trên Amazon, để chạy quảng cáo trên Google và Facebook nhằm thu hút khách hàng. Những người tiên phong này sau đó đã nhanh chóng có được cho mình các tệp khách hàng lớn, góp phần phát triển quy mô và doanh số cho công ty, tạo ra những lợi thế cạnh tranh lớn hơn so với các doanh nghiệp chưa đủ thông tin và cách thức để nắm bắt. Những lợi thế ấy đến từ chính những tính năng mới của Web2.0, tính năng “write” từ phía người dùng. Doanh nghiệp tận dụng tính năng này để có một kênh tương tác hai chiều với khách hàng tiềm năng, và cả những khách hàng trung thành của họ. Và khỏi phải nói, những tương tác hai chiều này đã góp phần giúp doanh nghiệp và khách hàng có những sự kết nối về mặt thông tin, qua đó gia tăng độ nhận diện thương hiệu, khả năng bán hàng, và sự gắn kết với khách hàng, đối tác.
Và một điều hiển nhiên là, thế hệ Web2.0 bùng nổ mang tới nhiều tiện ích nhưng cũng đi kèm với các rủi ro và hệ lụy. Sự cạnh tranh trên môi trường mạng ngày càng tăng, chi phí quảng cáo ngày càng đắt đỏ, doanh nghiệp phải cố gắng làm cho bản thân nổi bật trong một môi trường mà thông tin ngày càng được ra một cách dễ dàng bởi cả từ người dùng lẫn các hệ thống Gen Ai, và khách hàng tiềm năng của họ cũng đang ở trong những tình trạng bội thực thông tin tương tự.
Và đây là thời điểm chín muồi để Web3.0 (hay còn gọi là Web3) ra đời. Web3 mang tới cho các doanh nghiệp nhiều tiềm năng và cơ hội mới, như cơ hội gọi vốn kiểu mới, cơ hội tiếp cận thị trường toàn cầu kiểu mới, cơ hội gắn kết với khách hàng kiểu mới, cơ hội thanh toán toàn cầu kiểu mới, cơ hội quảng cáo kiểu mới, cơ hội tham gia vào chuỗi cung ứng giá trị toàn cầu kiểu mới… Điều này một lần nữa lại đặt ra trước mắt các chủ doanh nghiệp một vấn đề muôn thuở. Liệu họ có đang mải mê với những cách làm cũ trên Web2.0, họ chưa nhận ra những tiềm năng mới của web3, hay đơn giản là họ cũng đã nhận ra, nhưng còn chưa biết cách tiến hành…?
Trong cẩm nang tóm tắt này, chúng tôi hy vọng ngoài việc mang đến những nhận thức, những khái niệm mới về web3, thì thông qua những casestudy của các doanh nghiệp thành công trên thế giới đã áp dụng web3, cũng như những ví dụ cụ thể của các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam khi áp dụng web3, sẽ phần nào cho các bạn hình dung ra được doanh nghiệp của mình sẽ cần phải làm những gì.
Hình dung về những yếu tố cấu thành Web3
Để dễ hình dung về Web3, ta sẽ lấy Web1.0 ra để đối chiếu. Web1.0 những ngày đầu cũng mang tới một loạt những khái niệm mới cho người dùng máy tính để bàn thời kỳ đó. Nào là giao thức http, nào là dịch vụ www, nào là giao thức ftp, nào là dịch vụ email, nào là các trang web, nào là các tên miền, rồi là trình duyệt web
Web3 cũng vậy, cũng có những thứ hoàn toàn mới mà chúng ta sẽ dần phải làm quen. Nền tảng của Web3 là blockhain. Lưu ý, blockchain là công nghệ nền tảng, chứ không phải là tiền ảo như nhiều người hay nhầm tưởng. Sau này, chúng ta sẽ dùng dịch vụ Web3 với một niềm tin là mọi thứ an toàn bảo mật và chống sửa xóa đã có nền tảng blockchain lo, giống như chúng ta dùng web và email với một niềm tin là việc truyền chúng trên môi trường mạng đã có những giao thức như http hoặc dịch vụ www đảm nhiệm.
Sau khi đã có nền tảng blockchain, chúng ta sẽ có công cụ để duyệt Web3, hay nói đúng hơn là làm việc trên môi trường Web3. Công cụ này đa số hiện vẫn là trình duyệt Web2.0 quen thuộc như Chrome, Opera, Microsoft Edge, Firefox,…nhưng nay được bổ sung thêm một tính năng (một add on) quan trọng, đó là tính năng ví điện tử. Tại sao lại là ví điện tử? Nghe có vẻ như để lưu trữ tiền?
Bạn cảm nhận cũng gần đúng rồi đấy, nhưng trước khi tôi giải thích, tôi muốn lưu ý với bạn rằng, Web3 cũng giống như bao nhiêu điều mới lạ đã xảy ra trước đây, luôn mang tới những thứ mới. Những thứ mới này, có phần nào đó giống cái cũ, nhưng sẽ có những phần hoàn toàn mới. Ví dụ như nếu trước kia nói đến truyền hình, ta nghĩ ngay đến cái tivi, vì trong đầu ta chỉ có tivi mới bắt được sóng truyền hình, và ta không bao giờ nghĩ đến cái điện thoại, bởi điện thoại thời đó chỉ hiện thị được những ký tự đơn giản. Vậy mà ngày nay, chúng ta đã có truyền hình kiểu mới, truyền hình qua Internet, và chúng ta có thêm nhiều phương thức xem truyền hình, trong đó có phương thức xem trên máy tính và điện thoại di động.
Như vậy, quay lại với cái ví điện tử mà đi kèm theo trình duyệt đang nói ở trên kia. Nó là nơi “cất giữ” những thứ thực sự thuộc về bạn. Quyền truy cập thông tin là của bạn, quyền sở hữu là của bạn, chỉ bạn có. Thậm chí, nó chính là đại diện cho danh tính của bạn, cũng chỉ bạn có, và không ai có thể làm giả danh tính này được. Bạn sẽ dần làm quen với những hoạt động mới, đó là ngoài việc duyệt thông tin trên Internet để đọc, bạn còn có thêm các thao tác nhận và gửi các dữ liệu đặc biệt, và đó chính là tài sản số của bạn. Nhân đây, bạn sẽ tiếp tục làm quen với khái niệm Token, rồi NFT. Để dễ hình dung, giống như ngày xưa bạn muốn ai đó gửi cho mình 1 bức ảnh, bạn phải có 1 địa chỉ email, để rồi người muốn gửi ảnh cho bạn cũng phải có 1 địa chỉ email, và người đó sẽ email cho bạn 1 bức thư, với tiêu đề, nội dung, và đính kèm là bức hình dành cho bạn. Token hay NFT trong trường hợp này cũng gần như vậy. Bạn muốn nhận token hay NFT từ ai đó, bạn phải có ví điện tử, họ cũng phải có ví điện tử, và 2 người từ đó có thể gửi nhận qua lại cho nhau.
Chúng ta dừng lại ở đây lâu lâu một chút. Vì sẽ có một số điều nữa có thể so sánh để bạn tiếp tục có cái nhìn trong mối tương quan.
Đầu tiên là câu chuyện về thư điện tử của thế hệ Web1.0. Nó là gì, và làm sao để có nó?
Trước hết, hãy nhìn vào cấu trúc của 1 địa chỉ email (điều mà giờ đây ta có thể không quan tâm lắm). Địa chỉ email thường sẽ có 2 phần, phần đầu là tên người dùng, viết liền, không dấu, ví dụ tên tôi là minhdo, hoặc minhdn, hoặc đơn giản là minh. Tiếp theo là ký tự @ (ngày xưa ký tự này là biểu tượng của công nghệ đấy các bạn ạ. Cứ nói đến Internet là nói đến biểu tượng www và @ J ). Và sau ký tự @ này, sẽ là tên miền. À đấy, lại là một khái niệm mới của thời kỳ web1. Nhưng mà thôi, thay vì dành thời gian để trình bày về tên miền là một cấu trúc gồm tên của riêng nó, dấu chấm (.), và phần mở rộng là đại diện cho lĩnh vực của nó, ví dụ như Microsoft.com, gmail.com, vnn.vn, vnexpress.net,… thì trong trường hợp này, ta thấy rằng sẽ có 2 cách để ta có được 1 địa chỉ email dựa theo tên miền. Cách 1 là dựa luôn vào 1 tên miền mà ở đó họ cung cấp sẵn dịch vụ email công cộng, ví dụ Gmail.com hay Yahoo.com. Ta nhanh tay đăng ký trước một cái, và nếu may mắn, địa chỉ mail của chúng ta sẽ là minhdo@gmail.com, hoặc minhdo@yahoo.com (giả sử thế, không phải email của tôi đâu), còn nếu không nhanh tay thì sẽ là minhdo12345@gmail.com (ví dụ như vậy). Cách 2 là ta sở hữu email từ 1 tên miền riêng, ví dụ nếu bạn có tên miền riêng là www.archiindex.com, và nếu tên bạn là Lâm Lay, bạn đàng hoàng tự chọn cho mình email là lamlay@archiindex.com mà không sợ bị ai tranh mất.
Ngoài ra, có thể bạn chưa biết hoặc không để ý, tên miền mà bạn sử dụng ở trên, về bản chất, nó là dãy các chữ số định danh rất khó nhớ, ví dụ 166.122.105.002. Rất may nhờ có dịch vụ phân giải tên miền mà sau này, những người dùng như chúng ta thay vì phải nhớ những con số khô khan kia, thì chỉ cần nhớ tới tên nhà cung cấp dịch vụ và loại hình dịch vụ của nó. Ví dụ như facebook.com, hay amazon.com,…
Ví điện tử của Web3 ở giai đoan này cũng như vậy.
Bạn cần có một nền tảng blockchain nào đó để có thể đăng ký được một địa chỉ ví. Và cũng như email. Bạn lựa một nền tảng blockchain công cộng, ví dụ Ethereum, Solana, thậm chí blockchain Bitcoin, để tạo ví cho mình. Dưới đây là địa chỉ ví của bạn nếu đăng ký trên Ethereum, thì trông sẽ như sau:
- Bắt đầu với “0x”: Địa chỉ Ethereum luôn bắt đầu với “0x”, đánh dấu đây là địa chỉ trên chuỗi khối Ethereum.
- Dài 42 ký tự: Sau “0x” là 40 ký tự (hệ thập lục phân) bao gồm các chữ cái từ A đến F và các số từ 0 đến 9. Tổng độ dài của địa chỉ Ethereum là 42 ký tự.
- Không phân biệt chữ hoa chữ thường: Địa chỉ Ethereum không phân biệt chữ hoa và chữ thường, nhưng thông thường, các ví và ứng dụng sẽ hiển thị địa chỉ dưới dạng chữ thường hoặc chữ hoa để tránh nhầm lẫn.
- Ví dụ: 0x32Be343B94f860124dC4fEe278FDCBD38C102D88 (rất khó nhớ phải không nào, ví dụ thế thôi nhé, không phải địa chỉ ví của tôi đâu)
Và sau này, nhờ có dịch vụ tên miền ENS, người dùng đã có thể tạo địa chỉ dễ nhớ thay cho địa chỉ ví dài, ví dụ ten-nguoi-dung.eth. Các mạng Blockchain công cộng khác cũng tương tự với Solana là ten-nguoi-dung.sol, mạng Near có ten-nguoi-dung.near….
Chúng ta không lan man ở cái tên miền và địa chỉ email hay địa chỉ ví nữa. Coi như đến bước này là ta có 1 cái địa chỉ rồi.
Vấn đề là có địa chỉ email (và bây giờ là địa chỉ ví) xong thì để làm gì?
Nếu như bạn có địa chỉ email, thì ở thời kỳ của Web1.0 (và cả Web2.0 cho tới bây giờ), bạn dùng nó để gửi và nhận thông tin cho bạn bè, đối tác, khách hàng của mình. Thông tin ở đây có thể là văn bản, tệp đính kèm như hình ảnh, video, âm thanh, bảng tính,…
Ngoài ra gần đây, bạn dùng địa chỉ email này để đăng nhập vào các dịch vụ khác trên mạng. Ví dụ bạn có địa chỉ email Gmail, thì bạn dùng luôn tính năng đăng nhập bằng Google để đăng ký và sử dụng dịch vụ mà bạn cần. Trong trường hợp này, Email sẽ là yếu tố định danh của bạn.
Ví điện tử của Web3 cũng vậy. Sau khi có ví rồi, bạn có thể dùng nó để đăng nhập thẳng vào các dịch vụ của Web3 thay cho việc phải đăng ký kèm theo khai báo danh tính của mình như ở Web2.0. Đây là một sự khác biệt rất lớn, vì bạn có quyền sử dụng các dịch vụ trên không gian số mới này mà không phải xin phép ai cả, miễn là bạn có ví, tức là có một định danh riêng của mình.
Ngoài ra, bạn có thể gửi và nhận token và NFT cho bạn bè, đối tác, và các khách hàng của mình, nói chung là bất kỳ ai, miễn là người đó cũng có ví điện tử phù hợp. Ở bước này, bạn có thể đặt câu hỏi Token là gì, NFT là gì?
Cũng giống như ở Web1.0 và Web2.0, chúng ta gửi nhau những tệp dữ liệu (chứa thông tin) dưới định dạng của ảnh, bảng tính, file doc, pdf, video,… để người nhận có được những thông tin cần thiết. Thì ở Web3, chúng ta gửi nhau token hay NFT, là những “tài sản số” kiểu mới, ngoài việc chứa đựng thông tin, nó còn bao hàm cả giá trị và các quyền truy cập. Nó mang đến một cảm giác sở hữu cũng như cảm giác có thêm quyền và quyền lợi từ những token hay NFTs mà chủ ví nhận được.
Vậy thì đến bước này, chúng ta không dừng lại ở vai trò người dùng nữa. Ta sẽ đặt câu hỏi Token và NFTs, hoặc những thứ thuộc về Web3 như hợp đồng thông minh (khái niệm mới), ứng dụng phi tập trung (khái niệm mới), giúp gì cho doanh nghiệp của tôi?
Câu hỏi này giống như Website, Email, ứng dụng phần mềm trên nền web (web-based application) hoặc sau này là Mobile App giúp gì cho doanh nghiệp?
Tôi sẽ không trả lời câu hỏi này nữa, vì nó đã quá hiển nhiên. Nhưng, chúng ta nhận ra một điều rõ ràng rằng, Website, Email, … là thứ dễ tạo lập. Quan trọng là nó hoạt động như thế nào, có giúp tương tác tốt hơn với đối tác, với khách hàng tiềm năng, có gia tăng các hiệu quả của những hoạt động mà công ty thực sự mong muốn, như hiệu quả của sự hiện diện, hiệu quả của gắn kết, … hay không?
Token, NFTs và các ứng dụng phi tập trung dựa vào smart contracts cũng y hệt như vậy. Càng ngày thì những thứ này càng dễ tạo ra. Bạn có thể tự tạo token riêng cho mình hay cho công ty của mình trong vài phút. NFTs cũng thế. Và bây giờ, chúng ta sẽ đến với phần quan trọng, đó là tạo ra để làm gì, và nó giúp gì cho doanh nghiệp?
Hết phần 1.
Trên đây là phần 1 của bản thảo đầu tiên của chúng tôi khi viết cuốn Cẩm nang về Web3 dành cho các chủ doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam. Hiện tại, công việc biên soạn cẩm nang đã hoàn tất, và bạn có thể đọc toàn văn cẩm nang ở link phía trên.